Dân Y‑sơ-ra-ên mỗi người phải đóng trại gần bên ngọn cờ mình, ở dưới bảng-hiệu của tông-tộc mình, đối ngang nhau vây chung-quanh hội-mạc.
Trại-quân Giu-đa sẽ đóng tại hướng đông, về phía mặt trời mọc, với ngọn cờ và những đội-ngũ của mình. Quan-trưởng của người Giu-đa là Na-ha-sôn, con trai của A‑mi-na-đáp;
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng bảy mươi bốn ngàn sáu trăm người.
Chi-phái Y‑sa-ca phải đóng trại bên Giu-đa; quan-trưởng của người Y‑sa-ca là Na-tha-na-ên, con trai Xu‑a;
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng năm mươi bốn ngàn bốn trăm người.
Kế đến chi-phái Sa-bu-lôn; quan-trưởng của người Sa-bu-lôn là Ê‑li-áp, con trai của Hê-lôn,
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng năm mươi bảy ngàn bốn trăm người.
Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân Giu-đa, từng đội-ngũ, cọng một trăm tám mươi sáu ngàn bốn trăm người. Họ phải đi tiên-phong.
Ngọn cờ của trại-quân Ru-bên và những đội-ngũ mình, phải đóng về hướng nam. Quan-trưởng của người Ru-bên là Ê‑li-su, con trai của Sê-đêu;
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng bốn mươi sáu ngàn năm trăm người.
Chi-phái Si-mê-ôn phải đóng trại bên Ru-bên; quan-trưởng của người Si-mê-ôn là Sê-lu-mi-ên, con trai của Xu-ri-ha-đai;
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng năm mươi chín ngàn ba trăm người.
Kế đến chi-phái Gát; quan-trưởng của người Gát là Ê‑li-a-sáp, con trai của Rê-u-ên;
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng bốn mươi lăm ngàn sáu trăm năm mươi người.
Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân Ru-bên, từng đội-ngũ, cọng một trăm năm mươi mốt ngàn bốn trăm năm mươi người. Họ phải đi thứ nhì.
Sau ấy, hội-mạc sẽ đi với trại-quân Lê-vi, ở giữa các trại-quân khác; trại-quân Lê-vi sẽ đi theo thứ-tự như đã đóng, mỗi người theo hàng-ngũ và theo ngọn cờ mình.
Ngọn cờ của trại-quân Ép-ra-im và những quân-đội người phải đóng về hướng tây; quan-trưởng của người Ép-ra-im là Ê‑li-sa-ma, con trai A‑mi-hút;
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng bốn mươi ngàn năm trăm người.
Chi-phái Ma-na-se phải đóng trại bên Ép-ra-im; quan-trưởng của người Ma-na-se là Ga-ma-li-ên, con trai của Phê-đát-su;
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng ba mươi hai ngàn hai trăm người.
Kế đến chi-phái Bên-gia min; quan-trưởng của người Bên-gia-min là A‑bi-đan, con trai của Ghi-đeo-ni;
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng ba mươi lăm ngàn bốn trăm người.
Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân Ép-ra-im, từng đội-ngũ, cọng một trăm tám ngàn một trăm người. Họ phải đi thứ ba.
Ngọn cờ của trại-quân Đan và những quân-đội họ phải đóng về hướng bắc. Quan-trưởng của người Đan là A‑hi-ê-xe, con trai của A‑mi-sa-đai;
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng sáu mươi hai ngàn bảy trăm người.
Chi-phái A‑se phải đóng trại bên Đan; quan-trưởng của người A‑se là Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran;
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng bốn mươi mốt ngàn năm trăm người.
Kế đến chi-phái Nép-ta-li; quan-trưởng của người Nép-ta-li là A‑hi-ra, con trai của Ê‑nan;
và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng năm mươi ba ngàn bốn trăm người.
Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân Đan, cọng một trăm năm mươi bảy ngàn sáu trăm người. Họ theo ngọn cờ mình phải đi hậu-binh.
Đó là những người trong dân Y‑sơ-ra-ên mà người ta tu-bộ tùy theo tông-tộc mình, trong các trại-quân hết thảy người đã kê sổ từng đội-ngũ là sáu trăm ba ngàn năm trăm năm mươi người.
Nhưng người Lê-vi không nhập sổ chung với dân Y‑sơ-ra-ên, tùy theo mạng của Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
Dân Y‑sơ-ra-ên y theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se, bèn đóng trại tùy theo ngọn cờ mình, và mỗi người ra đi tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình.