But the Comforter, which is the Holy Ghost, whom the Father will send in my name, he shall teach you all things, and bring all things to your remembrance, whatsoever I have said unto you.
Đức Chúa Trời ôi! xin thương-xót tôi, xin thương-xót tôi, Vì linh-hồn tôi nương-náu nơi Chúa! Phải, tôi nương-náu mình dưới bóng cánh của Chúa, Cho đến chừng tai-họa đã qua.
Tôi sẽ kêu-cầu cùng Đức Chúa Trời Chí-Cao, Tức là Đức Chúa Trời làm thành mọi việc cho tôi.
Lúc kẻ muốn ăn-nuốt tôi làm sỉ-nhục, Thì Ngài sẽ từ trời sai ơn cứu tôi. (Sê-la) Phải, Đức Chúa Trời sẽ sai đến sự nhân-từ và sự chân-thật của Ngài.
Linh-hồn tôi ở giữa các sư-tử; Tôi nằm giữa những kẻ thổi lửa ra, Tức là các con loài người có răng giống như giáo và tên, Và lưỡi chúng nó khác nào gươm nhọn-bén.
Hỡi Đức Chúa Trời nguyện Chúa được tôn cao hơn các từng trời; Nguyện sự vinh-hiển Chúa trổi cao hơn cả trái đất!
Chúng nó đã gài lưới cho chân tôi, Linh-hồn tôi sờn-ngã: Chúng nó đào hầm trước mặt tôi. Song lại bị sa-xuống đó. (Sê-la)
Hỡi Đức Chúa Trời, lòng tôi vững-chắc, lòng tôi vững-chắc; Tôi sẽ hát, phải, tôi sẽ hát ngợi-khen.
Hỡi sự vinh-hiển ta, hãy tỉnh-thức! Hỡi cầm sắt, hãy tỉnh-thức! Chính mình tôi sẽ tỉnh-thức thật sớm.
Hỡi Chúa, tôi sẽ cảm-tạ Chúa giữa các dân, Hát ngợi-khen Chúa trong các nước.
Vì sự nhân-từ Chúa lớn đến tận trời, Sự chân-thật Chúa cao đến các từng mây.
Hỡi Đức Chúa Trời, nguyện Chúa được tôn cao hơn các từng trời. Nguyện sự vinh-hiển Chúa trổi cao hơn cả trái đất!